Lịch sử Sarawak

Tiền sử

Lối vào chính của Hang Niah

Những người sắt bắt hái lượm đầu tiên đến cửa tây của Hang Niah (cách 110 kilômét (68 mi) về phía tây nam của Miri)[6] 40.000 năm trước, khi Borneo nối liền với đại lục Đông Nam Á. Cảnh quan quanh Hang Niah khô hơn và trần trụi hơn so với hiện nay. Thời tiền sử, bao quanh Hang Niah là hỗn hợp các khu rừng rậm và cây bụi, cao nguyên cây thưa, đầm lầy, và sông. Những người đến ban đầu có thể sinh tồn trong các khu rừng nhờ săn bắn, đánh cá, và thu lượm các loài nhuyễn thể và thực vật ăn được[7] Điều này được chứng minh thông qua phát hiện một sọ người hiện đại, biệt danh là "Deep Skull", của nhà thông thái-khảo cổ người Anh Tom Harrisson vào năm 1958;[6][8] đây cũng là sọ người hiện đại cổ nhất được biết đến tại Đông Nam Á.[9] Chiếc sọ có lẽ là của một nữ thiếu niên 16-17 tuổi.[7] Cũng phát hiện được các di chỉ mộ táng thời đại đồ đá giữathời đại đồ đá mới.[10] Khu vực quanh Hang Niah được xác định là Vườn quốc gia Niah.[11]

Các di chỉ khảo cổ học khác sau đó được phát hiện tại các khu vực miền trung và miền nam Sarawak. Cuộc khai quật khác của Tom Harrisson vào năm 1949 phát hiện một loạt đồ gốm Trung Hoa tại Santubong (gần Kuching) có niên đại từ thời ĐườngTống. Có khả năng Santubong là một hải cảng quan trọng tại Sarawak trong thời kỳ đó, song tầm quan trọng của nó suy giảm vào thời Nguyên, và cảng bị bỏ hoang trong thời Minh.[12] Các di chỉ khảo cổ học khác tại Sarawak gồm có Kapit, Song, Serian, và Bau.[13]

Thời Đế quốc Brunei

Quang cảnh một sông tại Sarawak, Borneo, k. thập niên 1800. Bức họa từ Bảo tàng Hàng hải Quốc gia Anh tại Luân Đôn.

Trong thế kỷ XVI, khu vực Kuching[14] được các nhà vẽ bản đồ người Bồ Đào Nha biết tới với cái tên Cerava,[15] một trong số năm hải cảng lớn trên đảo Borneo.[16] Khu vực này nằm dưới ảnh hưởng của Đế quốc Brunei và từng được tự quản dưới quyền Sultan Tengah.[17] Đến đầu thế kỷ XIX, Sarawak trở thành một lãnh thổ được quản lý lỏng dưới quyền cai quản của Brunei.[15] Đế quốc Brunei chỉ có quyền lực dọc theo các khu vực duyên hải của Sarawak, là những nơi do các thủ lĩnh người Mã Lai bán độc lập nắm giữ. Trong khi đó, khu vực nội địa của Sarawak trải qua các cuộc chiến bộ lạc với thành phần là người Iban, Kayan, Kenyah, họ nỗ lực chiến đấu nhằm bành trướng lãnh thổ của mình.[18] Sau khi phát hiện thấy quặng antimon tại khu vực Kuching, Pangeran Indera Mahkota (một người đại diện của Quốc vương Brunei) bắt đầu phát triển lãnh thổ từ năm 1824 đến năm 1830. Khi sản lượng antimon gia tăng, Brunei yêu cầu Sarawak nộp thuế cao hơn;[19] dẫn đến nội loạn và hỗn độn.[15] Năm 1839, Quốc vương Brunei Omar Ali Saifuddin II lệnh cho chú là Pangeran Muda Hashim đi vãn hồi trật tự. Trong khoảng thời gian này một nhà thám hiểm người Anh tên là James Brooke đến Sarawak,[15] và Pangeran Muda Hashim thỉnh cầu người này giúp đỡ giải quyết vấn đề, song Brooke từ chối.[15] Tuy nhiên, Brooke chấp thuận một lời thỉnh cầu khác trong chuyến đi của ông đến Sarawak vào năm 1841. Pangeran Muda Hashim ký một hiệp ước vào năm 1841 theo đó trao Sarawak cho Brooke. Ngày 24 tháng 9 năm 1841,[20] Pangeran Muda Hashim ban tư cách thống đốc cho James Brooke. Quốc vương Brunei sau đó xác nhận sự bổ nhiệm này vào tháng 7 năm 1842. Đến tháng 10 năm 1843, James Brooke quyết định tiến hành một bước xa hơn và đưa Pangeran Muda Hashim vào triều đình Brunei. Triều đình Brunei bất mãn với việc bổ nhiệm Hashim và hạ lệnh ám sát khiến ông ta thiệt mạng vào năm 1845. Nhằm phản ứng, James Brooke cho bắn phá thủ đô của Brunei. Quốc vương Brunei quyết định gửi thư tạ lỗi đến Nữ hoàng Victoria và xác nhận quyền sở hữu của James Brooke đối với Sarawak và quyền khai mỏ của ông và không phải cống nạp cho triều đình Brunei.[21] Năm 1846, Brooke trở thành rajah đích thực của Sarawak và lập ra Triều đại Rajah Trắng tại Sarawak.[22][23]

Triều đại Brooke

James Brooke, rajah đầu tiên của Sarawak

Brooke cai trị khu vực và bành trướng lãnh thổ về phía bắc cho đến khi ông từ trần vào năm 1868. Kế vị ông là người cháu con em gái tên là Charles Anthoni Johnson Brooke, người này sau khi từ trần được con trai Charles Vyner Brooke kế vị, với điều kiện là Charles cần tham khảo với chú ruột là Bertram Brooke trong việc cai trị.[24] Cả James và Charles Brooke đều ký các hiệp ước với Brunei với chiến lược bành trướng biên giới lãnh thổ của Sarawak. Năm 1861, khu vực Bintulu được nhượng cho James Brooke. Năm 1883, Sarawak bành trướng đến sông Baram (gần Miri). Gia tộc Brooke giành được Limbang vào năm 1885 rồi hợp nhất vào Sarawak trong năm 1890. Quá trình bành trướng của Sarawak hoàn thành vào năm 1905 khi Lawas được nhượng lại cho chính phủ Brooke.[25][26] Sarawak được chia thành năm đơn vị hành chính, tương ứng với biên giới lãnh thổ của các khu vực mà gia tộc Brooke giành được theo thời gian. Người đứng đầu mỗi đơn vị hành chính là một công sứ.[27] Hoa Kỳ công nhận Sarawak là một quốc gia độc lập vào năm 1850, Anh Quốc có động thái tương tự vào năm 1864. Quốc gia ban hành tiền tệ đầu tiên của mình với tên dollar Sarawak vào năm 1858.[28] Tuy vậy, trong phạm vi Malaysia, Brooke được nhận định mà một tên thực dân.[29]

Một tem thuế Sarawak năm 1888 mang hình ảnh của Charles Brooke

Triều đại Brooke cai trị Sarawak trong một trăm năm với hiệu "Rajah Trắng".[30] Triều đại thông qua chính sách gia trưởng nhằm bảo hộ lợi ích của cư dân bản địa và phúc lợi tổng thể của họ. Chính phủ Brooke lập ra một hội đồng tối cao gồm các tù trưởng Mã Lai, họ cố vấn cho các rajah trên tất cả các phương diện quản trị.[31] Kỳ họp Đại hội đồng đầu tiên diễn ra tại Bintulu vào năm 1867. Hội đồng Tối cao là hội đồng lập pháp cấp bang cổ nhất tại Malaysia.[32] Trong khi đó, người Iban và các dân tộc Dayak khác được thuê làm dân quân.[33] Triều đại Brooke cũng khuyến khích các thương nhân người Hoa nhập cư nhằm phát triển kinh tế, đặc biệt là trong các lĩnh vực khai mỏ và nông nghiệp.[31] Các nhà tư bản phương Tây bị hạn chế nhập cảnh trong khi các nhà truyền giáo Cơ Đốc được khoan dung.[31] Nghề hải tặc, chế độ nô lệ, và tục săn đầu người cũng bị cấm chỉ.[34] Công ty Hữu hạn Borneo được thành lập vào năm 1856, tham gia nhiều lĩnh vực kinh doanh tại Sarawak như mậu dịch, ngân hàng, nông nghiệp, khai khoáng, và phát triển.[35]

James Brooke ban đầu ở trong một tòa nhà kiểu Mã Lai xây tại Kuching. Đến năm 1857, những người khai thác vàng thuộc nhóm Khách Gia đến từ Bau dưới quyền lãnh đạo của Lưu Thiện Bang 劉善邦 đã tàn phá dinh thự của Brooke. James Brooke đào thoát và tổ chức một quân đội lớn hơn cùng với Charles Brooke[36] và các ủng hộ viên người Mã Lai-Iban của ông.[31] Vài ngày sau, quân đội của Brooke có thể cắt đường thoát của phiến quân người Hoa, họ bị tiêu diệt sau hai tháng giao tranh.[37] Gia tộc Brooke sau đó xây dựng một tòa nhà chính phủ mới ven sông Sarawak tại Kuching mà nay gọi là Astana.[38][39] Một phái chống Brooke trong triều đình Brunei bị đánh bại vào năm 1860 tại Mukah. Các vụ nổi loạn đáng chú ý khác bị gia tộc Brooke dẹp yên gồm có vụ do một thủ lĩnh người Iban tên là Rentap (1853 – 1863), và một thủ lĩnh người Mã Lai tên là Syarif Masahor (1860 – 1862).[31] Kết quả là một loạt công sự được xây dựng quanh Kuching nhằm củng cố quyền lực của Rajah. Chúng gồm có Công sự Margherita hoàn thành vào năm 1879.[39] Năm 1891, Charles Anthoni Brooke cho lập Bảo tàng Sarawak, là bảo tàng cổ nhất tại Borneo.[39][40]

Năm 1941, trong lễ kỷ niệm 100 năm gia tộc Brooke cai trị Sarawak, một hiến pháp mới được soạn thảo nhằm hạn chế quyền lực của Rajah và nhằm cho phép người Sarawak đóng vai trò lớn hơn trong hoạt động của chính phủ.[41] Tuy nhiên, dự thảo hiến pháp có chứa những điều bất thường, bao gồm một thỏa thuận bí mật được soạn thảo giữa Charles Vyner Brooke và các quan chức chính phủ Anh Quốc, theo đó Vyner Brooke nhượng lại Sarawak để làm thuộc địa hoàng gia Anh nhằm đổi lấy bồi thường tài chính cho ông và gia đình.[30][42]

Nhật Bản chiếm đóng và Đồng Minh giải phóng

Không ảnh trại tù binh chiến tranh Batu Lintang; ngày 29 tháng 8 năm 1945 hoặc sau đó.Lễ đầu hàng chính thức của quân Nhật trước quân Úc tại Kuching vào ngày 11 tháng 9 năm 1945.

Chính phủ Brooke dưới quyền Charles Vyner Brooke lập ra một số đường băng tại Kuching, Oya, Mukah, Bintulu, và Miri để chuẩn bị trong trường hợp có chiến tranh. Đến năm 1941, người Anh triệt thoái lực lượng phòng thủ khỏi Sarawak và trở về Singapore. Do lúc này Sarawak không được phòng thủ, chế độ Brooke quyết định thông qua một chính sách tiêu thổ theo đó các cơ sở dầu mỏ tại Miri bị phá hủy và đường băng Kuching được duy trì lâu nhất có thể trước khi bị phá. Trong khi đó, quân Nhật quyết định chiếm Borneo thuộc Anh nhằm bảo vệ sườn phía đông của họ trong Chiến dịch Mã Lai và để thuận tiện cho việc xâm chiếm SumatraTây Java. Một đạo quân xâm lược Nhật Bản do Kiyotake Kawaguchi lãnh đạo đổ bộ tại Miri vào ngày 16 tháng 12 năm 1941 và chiếm Kuching vào ngày 24 tháng 12 năm 1941. Quân Anh dưới quyền Trung tá C. M. Lane quyết định triệt thoái đến Singkawang thuộc Borneo Hà Lan tiếp giáp Sarawak. Sau mười tuần giao tranh tại Borneo thuộc Hà Lan, quân Đồng Minh đầu hàng vào ngày 1 tháng 4 năm 1942.[43] Khi quân Nhật xâm chiếm Sarawak, Charles Vyner Brooke quyết định rời đến Sydney trong khi các quan chức của ông bị quân Nhật bắt giữ và giam tại trại Batu Lintang.[44]

Sarawak duy trì là bộ phận của Đế quốc Nhật Bản trong ba năm tám tháng. Sarawak cùng với Bắc Borneo và Brunei tạo thành một đơn vị hành chính đơn nhất mang tên Kita Boruneo (Bắc Borneo)[45] dưới quyền Quân đoàn 37 của Nhật có đại bản doanh tại Kuching. Sarawak được phân thành ba châu là: Kuching-shu, Sibu-shu, và Miri-shu, mỗi châu nằm dưới quyền một thống đốc người Nhật. Về cơ bản, người Nhật duy trì bộ máy hành chính tiền chiến và phân người Nhật đảm nhiệm các chức vụ chính phủ. Quyền quản lý nội lục của Sarawak được để lại cho cảnh sát bản địa và thủ lĩnh làng, dưới quyền giám sát của Nhật. Mặc dù người Mã Lai có đặc trưng là dễ dàng chấp nhận người Nhật, song các bộ lạc bản địa khác như Iban, Kayan, Kenyah, Kelabit và Lun Bawang giữ thái độ thù định với họ do các chính sách như lao động cưỡng bách, phân phối cưỡng bách thực phẩm, và tịch thu súng. Người Nhật không dùng đến các biện pháp mạnh nhằm kiềm chế người Hoa do người Hoa tại Sarawak nhìn chung là phi chính trị. Tuy nhiên, một lượng đáng kể người Hoa chuyển từ các khu vực đô thị đến khu vực nội lục khó tiếp cận hơn nhằm giảm bớt tiếp xúc với người Nhật.[46]

Quân Đồng Minh thành lập Đơn vị Đặc biệt Z để phá hoại các hoạt động của Nhật Bản tại Đông Nam Á. Bắt đầu từ tháng 3 năm 1945, các sĩ quan chỉ huy của Đồng Minh nhảy dù xuống rừng rậm Borneo và lập một số căn cứ tại Sarawak theo một chiến dịch có hiệu là "Semut". Hàng trăm người bản địa được huấn luyện để phát động tấn công chống quân Nhật. Thông tin tình báo thu thập được từ chiến dịch giúp quân Đồng Minh (đứng đầu là Úc) tái chiếm Borneo trong tháng 5 năm 1945 thông qua Chiến dịch Oboe Six.[47] Quân Nhật đầu hàng Quân Úc vào ngày 10 tháng 9 năm 1945 tại Labuan,[48][49] và lễ đầu hàng chính thức diễn ra ngoài khơi Kuching trên tàu hộ vệ HMAS Kapunda của Úc vào hôm sau.[50] Sarawak lập tức đặt dưới quyền Chính phủ Quân sự Anh cho đến tháng 4 năm 1946.[51]

Thuộc địa hoàng gia Anh

Tuần hành chống chuyển nhượng tại Sarawak

Sau chiến tranh, chính phủ Brooke không đủ nguồn lực để tái thiết Sarawak. Charles Vyner Brooke cũng không sẵn lòng giao lại quyền lực của mình cho người kế nhiệm hiển nhiên là cháu trai Anthony Brooke (con trai duy nhất của Bertram Brooke) do khác biệt nghiêm trọng giữa họ.[18] Ngoài ra, vợ của Vyner Brooke là Sylvia Brett cũng nỗ lực làm mất uy tín Anthony Brooke nhằm đưa con gái của bà lên ngôi. Do đó, Vyner Brooke quyết định nhượng lại chủ quyền của Sarawak cho Hoàng gia Anh.[42] Một dự luật chuyển nhượng được đưa ra Hội đồng Negri (hay là Hội đồng Lập pháp Bang Sarawak) và được thảo luận trong ba ngày. Dự luật được thông qua vào ngày 17 tháng 5 năm 1946 với kết quả đa số hẹp (19 so với 16 phiếu). Những người ủng hộ dự luật hầu hết là quan chức người Âu, trong khi người Mã Lai phản đối dự luật. Kết quả là hàng trăm công vụ viên người Mã Lai từ chức để phản đối, làm bùng phát phong trào chống chuyển nhượng và sự kiện ám sát thống đốc thực dân thứ nhì của Sarawak là Duncan Stewart do một người Mã Lai tên là Rosli Dhobi tiến hành.[52]

Anthony Brooke phản đối chuyển nhượng lãnh thổ của Rajaj cho Hoàng gia Anh. Ông bị cho là liên kết với các tổ chức chống chuyển nhượng tại Sarawak, đặc biệt là sau sự kiện ám sát Duncan Stewart.[53] Anthony Brooke tiếp tục yêu sách chủ quyền với tư cách là Rajah của Sarawak ngay cả sau khi Sarawak trở thành một Thuộc địa Hoàng gia Anh vào ngày 1 tháng 7 năm 1946.[42] Do đó ông bị chính phủ thực dân trục xuất khỏi Sarawak.[31] Năm 1950, toàn bộ các phong trào chống chuyển nhượng tại Sarawak ngừng lại sau khi bị chính phủ thực dân áp chế.[18] Năm 1951, Anthony từ bỏ toàn bộ yêu sách của mình đối với vương vị Sarawak sau khi sử dụng con đường pháp lý cuối cùng tại Viện Cơ mật Anh.[54]

Tự quản và Liên bang Malaysia

Stephen Kalong Ningkan tuyên bố việc thành lập Liên bang Malaysia vào ngày 16 tháng 9 năm 1963

Ngày 27 tháng 5 năm 1961, Thủ tướng Liên bang Malaya Tunku Abdul Rahman công bố kế hoạch thành lập một liên bang lớn hơn cùng với Singapore, Sarawak, Sabah và Brunei, mang tên Malaysia. Kế hoạch này khiến các lãnh đạo địa phương tại Sarawak thận trọng trước ý định của Tunku trong bối cảnh khác biệt lớn về phát triển kinh tế xã hội giữa Malaya và các quốc gia Borneo. Tồn tại một mốối lo ngại chung là nếu không có một thể chế chính trị mạnh mẽ, các quốc gia Borneo sẽ bị Malaya thực dân hóa. Do đó, nhiều chính đảng tại Sarawak xuất hiện để bảo vệ lợi ích của các cộng đồng mà họ đại diện. Ngày 17 tháng 1 năm 1962, Ủy ban Cobbold được thành lập nhằm đánh giá sự ủng hộ của Sarawak và Sabah đối với vấn đề liên bang hóa. Từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1962, ủy ban gặp trên 4.000 người và nhận được 2.200 bản ghi nhớ từ các tổ chức khác nhau. Ủy ban báo cáo rằng có sự chia rẽ về ủng hộ trong cư dân Borneo. Tuy nhiên, Tunku diễn giải số liệu là 80% ủng hộ liên bang hóa.[55][56] Sarawak phê chuẩn một hiệp nghị 18 điểm nhằm bảo đảm lợi ích trong liên bang. Ngày 26 tháng 9 năm 1962, Hội đồng Negri Sarawak thông qua một nghị quyết ủng hộ liên bang hóa với một điều kiện là các lợi ích của nhân dân Sarawak sẽ không bị tổn hại. Ngày 23 tháng 10 năm 1962, năm chính đảng tại Sarawak thành lập một mặt trận thống nhất ủng hộ thành lập Malaysia.[57] Sarawak được chính thức trao quyền tự quản vào ngày 22 tháng 7 năm 1963,[58][59][60] và sau đó hình thành Liên bang Malaysia cùng Malaya, Bắc Borneo, và Singapore vào ngày 16 tháng 9 năm 1963.[61][62]

Sự kiện liên bang hóa Malaysia gặp phải phản đối từ Philippines, Indonesia, Đảng Nhân dân Brunei, và Tổ chức Cộng sản Bí mật (CCO). Philippines và Indonesia tuyên bố rằng người Anh sẽ tiến hành chế độ thực dân mới tại các lãnh thổ Borneo thông qua liên bang.[63] Trong khi đó, thủ lĩnh của Đảng Nhân dân Brunei là A.M. Azahari xúc tiến khởi nghĩa tại Brunei trong tháng 12 năm 1962 để ngăn Brunei gia nhập Malaysia.[64] Azahari chiếm lĩnh Limbang và Bekenu trước khi bị quân Anh đến từ Singapore đánh bại. Tổng thống Indonesia Sukarno tuyên bố rằng khởi nghĩa tại Brunei là bằng chứng vững chắc về phản đối Malaysia liên bang hóa, ông hạ lệnh tiến hành đối đầu quân sự với Malaysia, phái các tình nguyện viên vũ trang và sau đó là quân đội đến Sarawak. Sarawak trở thành một điểm nóng trong đối đầu Indonesia–Malaysia từ năm 1962 đến năm 1966.[65][66] Những sự kiện đối đầu như vậy giành được ít sự ủng hộ từ người Sarawak ngoại trừ CCO. Hàng nghìn thành viên CCO đến Kalimantan và trải qua huấn luyện cùng Đảng Cộng sản Indonesia. Trong thời kỳ đối đầu, khoảng 10.000 đến 150.000 binh sĩ Anh đồn trú tại Sarawak, cùng với các binh sĩ Úc và New Zealand. Đến khi Suharto thay thế Sukarno làm tổng thống của Indonesia, các cuộc đàm phán giữa Malaysia và Indonesia được tái khởi động, dẫn đến kết thúc đối đầu vào ngày 11 tháng 8 năm 1966. Năm 1967, hiệp nghị mới được ký kết theo đó yêu cầu bất kỳ ai muốn vượt biên giới Sarawak – Kalimantan phải có một xác nhận vượt biên tại đồn kiểm soát biên giới.[63]

Sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập vào năm 1949, tư tưởng Mao Trạch Đông bắt đầu thâm nhập các trường học người Hoa tại Sarawak. Tổ chức cộng sản đầu tiên tại Sarawak được thành lập vào năm 1951, có nguồn gốc tại Trường Trung học Trung Hoa (Kuching). Kế tiếp tổ chức này là Đồng minh Giải phóng Sarawak (SLL) năm 1954 (các nguồn chính phủ còn viết là CCO). Hoạt động của họ này lan truyền từ trường học đến các hội quán và nông dân. Các hoạt động của CCO chủ yếu tập trung tại các khu vực miền nam và miền trung của Sarawak. Tư tưởng Mao Trạch Đông cũng thâm nhập thành công một chính đảng mang tên Đảng Liên hiệp Nhân dân Sarawak (SUPP). CCO nỗ lực nhằm lập ra một nhà nước cộng sản tại Sarawak thông qua các phương thức theo hiến pháp song trong thời kỳ đối đầu, họ dùng đến đấu tranh vũ trang chống chính phủ.[18] Văn Minh Quyền 文铭权 và Hoàng Kỉ Tác 黄纪作 là hai thủ lĩnh nổi bật của CCO. Sau đó, chính phủ Sarawak bắt đầu kế hoạch Làng Mới dọc đường Kuching – Serian nhằm ngăn chặn cộng đồng giúp đỡ những người cộng sản. CCO chính thức thành lập Đảng Cộng sản Bắc Kalimantan (NKCP) vào năm 1970. Năm 1973, Hoàng Kỉ Tác đầu hàng Thủ hiến Abdul Rahman Ya'kub; sự kiện này làm suy yếu đáng kể sức mạnh của đảng cộng sản. Văn Minh Quyền là người chỉ đạo CCO từ Trung Quốc từ giữa thập niên 1960, ông kêu gọi đấu tranh vũ trang chống chính quyền, và xung đột vẫn tiếp tục sau năm 1974 tại đồng bằng châu thổ sông Rajang. Năm 1989, Đảng Cộng sản Malaya (MCP) ký kết một hiệp nghị hòa bình với chính phủ Malaysia. Sự kiện này khiến NKCP mở lại các cuộc đàm phán với chính phủ Sarawak, kết quả là hiệp nghị hòa bình vào ngày 17 tháng 10 năm 1990. Hòa bình được khôi phục tại Sarawak sau khi nhóm 50 du kích cộng sản cuối cùng hạ vũ khí.[67][68]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Sarawak http://asiapacific.anu.edu.au/newmandala/2013/07/2... http://artsonline.monash.edu.au/mai/files/2012/07/... http://www.navy.gov.au/hmas-kapunda http://www.abc.net.au/science/slab/niahcave/histor... http://www.bt.com.bn/golden_legacy/2008/12/28/sult... http://www.bt.com.bn/home_news/2009/03/17/brunei_d... http://www.bt.com.bn/home_news/2009/03/18/limbang_... http://www.bt.com.bn/life/2007/12/16/penan_slowly_... http://archaeology.about.com/od/nterms/qt/niah_cav... http://aliran.com/aliran-monthly/2013/201310/lesso...